vi+84988723188, +84988211968
·
[email protected]
·
24/7

XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ TÀI SẢN VÀ QUYỀN SỞ HỮU TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

I. Pháp luật Việt Nam trong việc giải quyết xung đột pháp luật từ quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước nước ngoài
1. Khái niệm quyền sở hữu trong tư pháp quốc tế
Quyền sở hữu trong Tư pháp quốc tế là quyền sở hữu hữu có yếu tố nước ngoài, là tổng hợp các quyền năng của các chủ thể được pháp luật thừa nhận trong quá trình sử dụng, sử dụng, định luật tài sản.

Khi quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài phát sinh sẽ làm phát sinh hiện tượng xung đột pháp luật. Vì vậy, vấn đề được đặt ra là cần phải chỉnh sửa hệ thống luật pháp cần áp dụng để điều chỉnh quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài trong tình huống cụ thể.

2. Xung đột về quyền sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài

2.1. Nguyên tắc chung luật nơi có tài sản
Để giải quyết xung đột pháp luật về tài sản và quyền sở hữu tư pháp quốc tế của hầu hết các nước đều áp dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản ( Lex rei sitae ) như Điều 99 Đạo luật pháp quốc tế năm 1982 của Thụy Sĩ; Điều 13 Luật chung về luật ứng dụng năm 2006 của Nhật Bản; và được áp dụng tại Việt Nam trong Bộ luật Dân sự (“BLDS”) 1995, 2005 và 2015.

Luật nơi tài sản được hiểu là vật (tài sản) hiện đang tồn tại ở nước nào thì luật pháp nước đó sẽ áp dụng cho tài sản đó. Bộ luật dân sự Việt Nam cũng dựa trên nguyên tắc chung này để giải quyết xung đột về quan hệ sở hữu tại sản phẩm, quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 678 BLDS năm 2015: “Việc xác lập, chấm dứt quyền sở hữu, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều này”.

Như vậy, không phụ thuộc vào đối tượng của quan hệ sở hữu là động sản hay bất động sản, quyền sở hữu và các quyền tài sản khác sẽ làm luật nơi có tài sản điều chỉnh.

2.2. Căn cứ của hệ luật nơi có tài sản: (i) Nơi tồn tại của tài sản là nơi bất kỳ ai cũng có thể xác định được một cách dễ dàng, do đó sẽ đáp ứng được yêu cầu bảo đảm hiệu lực đối kháng với thứ ba và sự ổn định của giao dịch;
(ii) Quan hệ sở hữu là quan hệ pháp lý liên quan trực tiếp đến công việc chi phối, sử dụng tài sản, nên việc xác định nội dung của các quyền này đương nhiên được cho là cần thiết phù hợp với pháp luật nước nơi có tài sản đó;
(iii) Nếu áp dụng hệ thống luật pháp của nước nào không phải là nơi có tài sản thì sẽ dẫn đến việc áp dụng luật pháp nước này cho tài sản nằm ở nước khác, mà nếu tài sản cần phải đăng ký thì sẽ gây ra rất nhiều nhiều khó khăn, Đống mắc;
(iv) Tài sản, đặc biệt là bất động sản ở nước nào thì sẽ liên quan đến các lợi ích, kể cả lợi ích công cộng ở nước đó nên việc áp dụng luật nơi có tài sản vừa dễ xác định đảm bảo sự hợp lý trong mối quan hệ lợi ích của các mối quan hệ đương nhiên và hữu ích nhà nước có liên quan.

2.3. Phạm vi áp dụng nguyên tắc nơi có tài sản

Theo Điều 667 Bộ luật Dân sự 2015: “Sử dụng phân loại tài sản là động sản hay bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản”

Tức là tài sản nằm trên lãnh thổ quốc gia nào sẽ chịu sự điều chỉnh của hệ thống luật pháp quốc gia.
Đối với sản phẩm là tài sản gắn liền với lãnh thổ quốc gia nhất định, không phụ thuộc chủ sở hữu của bất động sản đó là người nước nào khi có tranh chấp pháp luật đương nhiên áp dụng luật pháp quốc gia nơi bất động sản tồn tại tạo ra.

Đối với động sản, có thể chuyển đổi thì luật pháp sẽ được thay đổi khi tài sản đó được chuyển đổi qua biên giới. Nếu quyền sở hữu tài sản là động sản được phát sinh trên cơ sở pháp luật của nước này nhưng khi tài sản đó được chuyển sang nước khác thì quyền sở hữu của chủ sở hữu vẫn được nước bảo hộ. Tuy nhiên, phạm vi và nội dung quyền sở hữu đối với tài sản này phải làm luật pháp của nước nơi đang có tài sản điều chỉnh.

Ví dụ: Một cá nhân thủ quyền sở hữu đối với một động sản ở nước ngoài theo luật pháp nước ngoài, nhưng nếu người đó mang tài sản vào Việt Nam một cách hợp pháp thì quyền sở hữu của cá nhân đó vẫn là pháp luật Bảo hộ Việt Nam. Tuy nhiên, phạm vi nôi dung của quyền sở hữu đối với động sản tranh chấp phải được xác định theo pháp luật Việt Nam – pháp luật nơi có tài sản.

2.4. Ý nghĩa pháp lý

Việc áp dụng nguyên tắc nơi có tài sản để giải quyết tranh chấp pháp lý liên quan đến quan hệ tài sản trong quốc tế có những ý nghĩa quan trọng.
– Bảo bảo tôn trọng lợi ích Nhà nước nơi có tài sản, bảo mật trật tự quốc gia, Nhà nước được thực thi chủ quyền của mình;
– Bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu tài sản trong công việc thực thi quyền của mình đối với tài sản;
– Tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo về quyền sở hữu cho chủ sở hữu khi có tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu đối với tài sản đó; tạo thuận lợi cho cơ quan giải quyết tranh chấp trong việc xác định đối tượng tranh chấp
– Bảo vệ quyền lợi của người sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình (người thủ đắc trung thực)

 

Related Posts

Leave a Reply

Recent Articles

11hop-dong-thue-kho-ngoai-quan
Hợp đồng thuê kho ngoại quan là gì?
Tháng Tư 26, 2024
11
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HẾT QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ NHẬP KHẨU SONG SONG
Tháng Ba 7, 2024
11
Phân biệt ERC, IRC và BRC của doanh nghiệp có vốn nước ngoài
Tháng Ba 6, 2024
11Dai-ly-thuong-mai
CÁ NHÂN CÓ ĐƯỢC ĐĂNG KÝ LÀM ĐẠI LÝ THƯƠNG MẠI BÁN HÀNG CHO CÁC CÔNG TY?
Tháng Một 18, 2024
11
Những trường hợp nào hàng hóa được hạ giá mà không vi phạm pháp luật?
Tháng Một 9, 2024
Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi Luật thuế giá trị gia tăng
Tháng Một 8, 2024
11
Quy định về tài sản của vợ chồng sau ly hôn
Tháng Một 8, 2024
QUY ĐỊNH TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG LI-XĂNG
Tháng Một 4, 2024
Thông tư 15/2023/TT-BLĐTBXH sửa đổi, bổ sung quy định về bảo hiểm thất nghiệp
Tháng Một 3, 2024
11Van-phong-dai-dien-cua-co-so-giao-duc-nuoc-ngoai
Thủ tục thành lập văn phòng đại diện của cơ sở giáo dục nước ngoài tại Việt Nam
Tháng Mười Hai 25, 2023